Tại sao người Việt Nam khó có thể hạnh phúc?

Hiện nay, có nhiều thống kê cho rằng Việt Nam nằm ở bậc khá cao trên thế giới về hạnh phúc. Điều đó không khỏi dẫn tới tự mãn phần nào trong tư tưởng của nhiều người.
Tuy nhiên, có mâu thuẫn nào đó giữa trình độ phát triển, nền kinh tế, trình độ văn hoá v.v. của Việt Nam trong tương quan với chỉ số hạnh phúc này.
Phải chăng điều đó chứng tỏ những tiêu chí phát triển của loài người và hạnh phúc có thể mâu thuẫn với nhau? Rồi lại có những người nói rằng thực ra Tây cũng không phải hạnh phúc đâu, họ có đầy cái bất hạnh, và ta cũng không phải dở đâu, vì ta có đầy cái sướng. Điều này có thể xảy ra, nhưng không dễ tin cho lắm.
Ta thường gặp hai loại bộ chỉ số hạnh phúc chính:
- Bộ chỉ số hạnh phúc chủ quan (The Subjective Happiness Scale -SHS) hay Bộ chỉ số độ hài lòng với cuộc sống (The Satisfaction with Life Scale - SWLS)
- Bộ chỉ số ảnh hưởng tích cực tiêu cực (The Positive and Negative Affect Schedule - PANAS)
Tất cả các loại chỉ số đều là con lai giữa hai loại bộ chỉ số này. Loại thứ nhất nói về độ hài lòng chủ quan của một người với thời điểm hiện tại và quá khứ gần.
Loại thứ hai thống kê những yếu tố bên ngoài có thể ảnh hưởng tốt hay xấu tới đời sống con người và cho rằng nếu nhiều yếu tố tốt thì con người sẽ hạnh phúc hơn và nhiều yếu tố xấu thì con người sẽ ít hạnh phúc hơn.

'Thận trọng'

Với nhóm thứ nhất, nhận định chủ quan của từng cá nhân không có cơ sở so sánh vì sự hài lòng của mỗi cá nhân có thể hoàn toàn khác nhau.
Sự hài lòng của một đứa trẻ được kẹo và một nhà khoa học mới phát minh ra một lý thuyết mới không thể là một. Ngay cả khi thêm vào lời khai chủ quan những chỉ số mang tính vật lý thuần tuý như nồng độ adrenaline, dopamine v.v. cũng không cải thiện được chất lượng thông tin và khả năng so sánh.
Các hormone đều chỉ là triệu chứng đi kèm theo cảm giác hạnh phúc chứ không phải định nghĩa hạnh phúc, hay là chỉ số chứng tỏ hạnh phúc. Adrenaline có thể tăng cả trong trường hợp sợ hãi, hoặc bệnh lý.
Nhóm thứ hai bao gồm những thông tin khách quan hơn như thu nhập, môi trường, chính sách v.v. Những bộ chỉ số này không trực tiếp đo hạnh phúc, mà đo những yếu tố được cho rằng sẽ ảnh hưởng đến mức độ hạnh phúc.
Tuy nhiên, có thể thấy rõ là hai người sống trong cùng điều kiện ngoại cảnh như nhau không có cùng độ hạnh phúc như nhau. Tác dụng của những yếu tố ngoại cảnh tới từng người rất khác nhau, như vậy tác dụng của ngoại cảnh đó tới từng dân tộc lại cũng rất khác nhau.
Tóm lại, nhóm thứ nhất tả về những thứ rất khác nhau dưới cùng một tên là "hạnh phúc", nhóm thứ hai tả về một loạt yếu tố có tác dụng rất khác nhau đến các loại hạnh phúc khác nhau kia, như vậy thì làm sao gọi là có cơ sở so sánh được. Khi đã không cùng một cơ sở so sánh thì mọi so sánh là khập khiễng.
Tuy vô nghĩa về mặt giá trị khoa học, nhưng những chỉ số này đặc biệt có tính chất gây nghiện, nhất là đối với những xã hội có tầm nhận thức thấp. Nó mang lại sự hài lòng một cách đáng thương và nguy hiểm.
Vì thế, cần phải làm rõ vấn đề hạnh phúc và rất thận trọng với những loại chỉ số này.

Chữ 'Phúc'

Chữ hạnh phúc bao gồm 'hạnh' và 'phúc' trong quan hệ nhân quả, tức là chỉ riêng cái loại 'phúc' do 'hạnh' mà đạt được. Trong đó riêng chữ 'phúc' đã bao hàm rất lớn, là một cuộc sống tốt, đáng mong ước nói chung, chứ không phải chỉ là một cảm giác sướng hay dễ chịu nhất thời.
Về điểm này, Đông Tây từ xưa đều thống nhất quan điểm. Người Hy lạp có khái niệm eudaimonia, với chính xác nghĩa như "phúc do hạnh mà đạt".
Bản thân chữ Phúc có nhiều nội hàm khác nhau trong từng nền văn hoá, nhưng nó vẫn là cái gì đó rất lớn. Trong văn minh Nho giáo, mỗi con người chỉ là một mắt xích trong một chuỗi quan hệ dòng tộc tử tổ tiên tới hậu duệ. Vì thế, chữ 'phúc' không chỉ bao gồm cuộc sống tốt một đời, mà là cái tốt cho muôn đời tính theo dòng tộc.
Hạnh không phải là những hành động đạo đức, tuân theo những luật lệ cụ thể, mà là cơ sở nội tại của đạo đức, là những nền móng tiên nghiệm cho toàn bộ hệ thống đạo đức.
Mặc dù nhiều người cho rằng cơ sở này là tiên nghiệm và làm thước đo cho tính đạo đức của mọi hành vi, nhưng ở mỗi nền văn minh, cơ sở này được xác định khác nhau.
Có thể nói là có những cái cây đạo đức khác nhau, xuất phát từ những bộ rễ khác nhau. Mặc dù vậy, khác với cái hạnh phúc do cảm nhận chủ quan nhất thời của mỗi người tại mỗi thời điểm thì số lượng các loại bộ rễ tiên nghiệm, các loại nền tảng đạo đức trên thế giới không có nhiều.

Hạnh phúc dựa trên cái 'Biết'

Theo Aristotle thì một cuộc sống tốt là cuộc sống phù hợp tối ưu với bản chất con người, và chỉ đạt được bằng tư duy mạch lạc, khoa học, tức là làm gì cũng đúng lúc, đúng chỗ, có lý do (perfect rationality).
Những đức hạnh quan trọng nhất theo người Hy Lạp, là niềm tin vào vị trí đặc biệt cao quý của con người - là trung tâm, thước đo của vũ trụ, vào sự bình đẳng giữa con người, và vào năng lực cũng như nghĩa vụ của con người trong việc khám phá ra những quy luật của vũ trụ.
Một hành động được coi là có lý do không phải vì nó sẽ dẫn tới một kết quả cụ thể nào, một lợi ích vật chất gì, mà vì nó nằm trong vai trò cao quý của loài người nói trên.
Chúng ta hay nghe câu cửa miệng "biết đủ là hạnh phúc". Tưởng là đơn giản, nhưng vấn đề là "biết" chứ không phải "cảm thấy".
Tất nhiên, khoa học không phải con đường duy nhất để dẫn đến cái 'biết'. Ta có thể tin là Phật khi giác ngộ cũng biết, bằng con đường khác, nhưng chừng nào ta chưa phải là Phật thì chưa thể nói là cảm nhận được về loại hạnh phúc đó.
Đạo giáo ở phương Đông về cơ bản không khác nhiều so với quan điểm của người Hy Lạp, vì thế những quan điểm của Đạo giáo rất giống thời kỳ Hy Lạp tiền Socrates.
Theo đạo giáo thì một người đức hạnh là một người hành động thuận theo tự nhiên, nhưng để làm được việc đó thì phải biết tự nhiên hành động thế nào. Chỉ có điều những phát kiến của Đạo Giáo về lĩnh vực này thì không đi được xa như phương Tây.
Hạnh phúc trong Thiên Chúa giáo
Đối với Thiên Chúa giáo thì hạnh phúc cuối cùng là được Chúa cho lên thiên đàng. Nhưng khi nào thì được lên thiên đàng?
Theo Thomas von Aquin, một hành động được coi là đức hạnh không phụ thuộc vào kết quả của nó, mà khi nó có một lý do chính đáng, bởi vì Chúa sẽ xét theo lý do đó chứ không xét theo kết quả.
Thời Trung cổ, muốn như vậy thì hãy làm theo gương Jesus (imitatio Christi), mà quan trọng nhất là tình yêu vô bờ bến đối với tất cả mọi người, không phân biệt giàu nghèo, xuất xứ, năng lực, chủng tộc (bác ái).
Đến thời tư bản sau này, ta có lý thuyết của Weber về hệ đạo đức Tân giáo (Protestant), cho rằng con người sẽ chỉ có đức hạnh thông qua lao động không ngừng nghỉ, và chỉ với sự lao động đó, con người mới được chúa đón vào thiên đàng.
Theo triết gia Thiên Chúa giáo người Nga Soloviev thì cơ sở cho đạo đức Thiên Chúa giáo là sự xấu hổ, xuất phát từ tội tổ tông truyền.
Chính trực giác về cảm giác xấu hổ sẽ dẫn người ta biết cái gì nên làm, cái gì không nên làm. Ta thường nói một việc không đạo đức là một việc làm trái với lương tâm, cũng chính là nhờ vào cái năng lực tiên nghiệm về việc cái gì là đáng xấu hổ, cái gì là không.
'Hạnh phúc nhờ hy sinh'
Theo như Nietzsche thì con người không thể đạt tới hạnh phúc bằng cách trực tiếp hướng tới nó vì những nỗ lực nhằm đạt những cảm giác sung sướng, hài lòng v.v. chỉ dẫn tới những tham vọng mông muội.
Ngược lại, hạnh phúc chỉ đến với những ai nỗ lực, khổ đau, trăn trở. Nó là phần thưởng cho những sự hy sinh cao quý, sự dũng cảm từ chối con đường dễ dãi.
Theo Phật giáo thì hành động đức hạnh được định nghĩa bằng bát chánh đạo, và kết quả của nó là cái phúc vĩnh hằng, hay là trạng thái niết bàn, một trạng thái cân bằng tuyệt đối, không còn khổ. Bản chất của đức hạnh này là năng lực buông bỏ, cũng có thể coi như tuệ căn, hay phật tính, được cho là tiền nghiệm trong mỗi sinh linh, chẳng qua là có phát huy được đến đâu thôi.
Nho giáo có rất nhiều khái niệm đạo đức, đức hạnh, nhưng chốt lại đều từ một chữ Nhân. Tất cả những thứ khác như : lễ nghĩa trí tín v.v. đều chỉ là công cụ, là triển khai cụ thể, nhằm đạt được chữ nhân mà thôi.
Chữ nhân này lại gần như không có nội hàm gì, vì nó chỉ là tính người chung chung. Đối với mỗi học trò, Khổng Tử lại dạy một chữ nhân khác nhau, tuỳ thuộc vào năng lực và xuất phát điểm của người đó.
Vì thế rất khó mà hiểu được khi nào thì một hành động được coi là đức hạnh, khi nào thì không. Đó chính là lý do để rất nhiều trường hợp, việc thực hành những nguyên lý đạo đức Nho giáo trở thành cổ hủ, cứng nhắc.
Theo Francoise Julien thì cơ sở đạo đức của Nho giáo có thể được nhận ra ở quan điểm của Mạnh tử về "xích tử chi tâm", có nghĩa là sự "mủi lòng". Sự "mủi lòng" này gần giống với bác ái của Thiên Chúa giáo. Nó giống ở chỗ cũng cần phải có đối tượng cho sự mủi lòng đó.
Tuy nhiên, sự mủi lòng hạn hẹp hơn bác ái. Tinh thần bác ái có thể được áp dụng với mọi đối tượng, trong mọi trường hợp, nhưng sự mủi lòng thì tiền giả định là đối tượng phải yếu đuối, đáng thương. Để một người có thể hạnh phúc vì mủi lòng với kẻ khác thì luôn phải có những kẻ bất hạnh để người ta phải mủi lòng.
Ngoài những khái niệm trên, những nền văn hoá khác cũng có thể có những khái niệm về hạnh phúc khác. Có thể nói rằng những nền văn minh khác nhau có khái niệm về hạnh phúc rất khác nhau, vì thế, không thể so sánh những loại hạnh phúc này với nhau.
Việt Nam nằm trong ảnh hưởng chính của Nho giáo, vì thế quan niệm về hạnh phúc khá mù mờ nên dễ bị lung lạc. Tuy nhiên, nếu thực sự thấm nhuần quan điểm Nho giáo thì ít nhất cũng phải hiểu được cái gì chắc chắn không thể là hạnh phúc.
Tất cả những gì ta hình dung không phải góp phần vào thành tựu bền vững cho muôn thế hệ thì chắc chắn không phải hạnh phúc. Một thứ chỉ có thể coi là hạnh phúc khi nó góp phần tạo phúc cho con cháu đời đời.

Share this

Related Posts

Previous
Next Post »